Kiểm tra HIV cho kết quả tế bào CD4 dưới 200 nghĩa là gì? Bệnh có trở nên nặng và nguy hiểm hơn không? Cùng bài viết tìm hiểu nhé!
Tế bào CD4
Tế bào CD4 là tế bào bạch cầu được gọi là tế bào lympho T hoặc tế bào T chống nhiễm trùng, và đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của hệ thống miễn dịch. CD4 được tạo ra trong tuyến ức và di chuyển khắp cơ thể thông qua máu và hệ thống bạch huyết. Xét nghiệm CD4 đo số lượng tế bào trong máu và kết hợp với xét nghiệm tải lượng vi rút HIV, có thể giúp đánh giá tình trạng của hệ thống miễn dịch ở những người được chẩn đoán nhiễm vi rút suy giảm miễn dịch ở người (HIV).
Tế bào CD4 đôi khi được gọi là tế bào T trợ giúp. Nó giúp xác định, tấn công và tiêu diệt một số vi khuẩn, nấm và vi rút gây nhiễm trùng. Tế bào CD4 là mục tiêu chính của HIV, gắn vào bề mặt của tế bào CD4, xâm nhập vào tế bào, sao chép ngay lập tức và giết chết tế bào trong khi tái tạo hoặc tái tạo.
Nếu HIV không được điều trị, vi rút sẽ xâm nhập vào tế bào và nhân lên, làm tăng tải lượng vi rút và từ từ làm giảm số lượng tế bào CD4 trong máu. CD4 giảm dần khi bệnh tiến triển. Nếu không được điều trị, quá trình này có thể tiếp tục trong nhiều năm cho đến khi số lượng tế bào CD4 giảm xuống mức đủ để gây ra các triệu chứng liên quan đến AIDS.
Điều trị nhiễm HIV, đôi khi được gọi là liệu pháp kháng retrovirus (ART hoặc ART) hoặc liệu pháp kháng retrovirus hoạt tính cao (HAART), thường bao gồm sự kết hợp của nhiều loại thuốc. Các phương pháp điều trị làm giảm lượng HIV trong cơ thể và giảm nguy cơ tiến triển của bệnh. Khi điều này xảy ra, mức CD4 tăng lên và / hoặc ổn định.
Tế bào CD8 là loại tế bào lympho. Đôi khi được gọi là tế bào ức chế T hoặc tế bào T độc tế bào. Tế bào CD8 xác định và tiêu diệt các tế bào bị nhiễm virus và các tế bào bị ung thư. Chúng vai trò quan trọng trong phản ứng miễn dịch với HIV bằng cách tiêu diệt các tế bào bị nhiễm vi-rút và tạo ra các chất ngăn chặn sự nhân lên của HIV.
Khi bệnh tiến triển, số lượng tế bào CD4 giảm tương quan với tổng số tế bào lympho và tế bào CD8. Kết quả xét nghiệm có thể được biểu thị dưới dạng tổng tỷ lệ tế bào lympho/CD4 (tỷ lệ phần trăm) để làm rõ hơn tình trạng hệ thống miễn dịch.
Xét nghiệm CD4 và CD8 cũng thường được sử dụng trong các bệnh khác như ung thư hạch và cấy ghép nội tạng.
Các bài kiểm tra được sử dụng như thế nào?
CD4 thường được sử dụng kết hợp với tải lượng vi-rút HIV để đánh giá hệ thống miễn dịch ở những người được chẩn đoán nhiễm HIV và theo dõi hiệu quả của liệu pháp kháng vi-rút (ART hoặc ARV) hay còn gọi là liệu pháp kháng vi-rút. . Tế bào CD4 là mục tiêu chính của HIV. Vi-rút xâm nhập tế bào và sử dụng chúng để tạo bản sao của chính chúng (nhân rộng) và lây lan khắp cơ thể. HIV giết tế bào CD4. Do đó, nếu nhiễm HIV không được điều trị, số lượng tế bào CD4 sẽ giảm khi nhiễm HIV tiến triển.
Tất cả những người được chẩn đoán nhiễm HIV, bao gồm cả phụ nữ mang thai, được khuyến khích điều trị bằng thuốc kháng vi-rút càng sớm càng tốt để giảm nguy cơ tiến triển của bệnh. Thường cần có sự kết hợp của ít nhất ba tác nhân từ hai nhóm khác nhau để ngăn chặn hoặc giảm thiểu sự nhân lên của virus và sự xuất hiện của các chủng kháng thuốc. Sự kết hợp của ba loại thuốc kháng vi-rút trở lên được gọi là liệu pháp kháng vi-rút hoạt tính cao (HAART).
Tế bào CD4 thường bị phá hủy nhanh hơn tế bào lympho. Điều này là do các con số tuyệt đối thay đổi theo từng ngày. Nó cũng có thể được biểu thị bằng tỷ lệ số lượng tế bào CD4 trên tổng số lượng tế bào. Kết quả được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm của tổng số CD4/tế bào lympho.
Kết quả có thể cho các bác sĩ biết một cách chắc chắn hệ thống miễn dịch của một người là gì và có thể giúp dự đoán nguy cơ biến chứng và nhiễm trùng cơ hội làm suy nhược. Đây là biện pháp hữu ích nhất. Chúng được sử dụng cùng với xét nghiệm tải lượng vi-rút HIV để theo dõi hiệu quả của điều trị ARV trong việc ức chế vi-rút và xác định nguy cơ tiến triển của bệnh HIV.
Đôi khi, xét nghiệm CD4 có thể được sử dụng cùng với xét nghiệm các tế bào CD8 để giúp chẩn đoán hay theo dõi các bệnh khác như u lympho, cấy ghép nội tạng, và hội chứng DiGeorge, tế bào CD8 là một loại tế bào lympho xác định và tiêu diệt các tế bào đã bị nhiễm virus hoặc đã bị ảnh hưởng bởi bệnh ung thư.
Khi nào được chỉ định?
Xét nghiệm đếm số lượng CD4 thường được chỉ định cùng với tải lượng virus HIV khi một người được tính nhiễm HIV như là một phần của một phép đo cơ bản. Sau xét nghiệm cơ bản, một số lượng CD4 sẽ thường được chỉ định tại các khoảng thời điểm tùy thuộc vào một vài yếu tố khác nhau.
Kết quả kiểm tra có ý nghĩa gì?
Số lượng CD4 thường được báo cáo là số lượng tuyệt đối hoặc số lượng tế bào (được biểu thị bằng số tế bào trên một milimét khối máu). Số lượng CD4 bình thường nằm trong khoảng từ 500 đến 1.200 tế bào/mm3 ở người lớn và thanh thiếu niên. Kết quả có thể được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm của tổng số tế bào lympho (phần trăm CD4).
Nói chung, số lượng CD4 bình thường có nghĩa là hệ thống miễn dịch của một người không bị tổn hại bởi HIV. Số lượng CD4 thấp cho thấy hệ thống miễn dịch của người đó bị tổn hại bởi HIV và / hoặc bệnh đang tiến triển. Tuy nhiên, kết quả xét nghiệm CD4 một lần có thể khác với xét nghiệm khẳng định, ngay cả khi tình trạng sức khỏe của người đó không thay đổi. Các bác sĩ thường lấy nhiều kết quả xét nghiệm CD4 cùng một lúc và đánh giá kết quả CD4 theo thời gian thay vì lấy giá trị một lần.
Sự gia tăng và / hoặc ổn định của CD4 theo thời gian có thể cho thấy người đó đang đáp ứng với điều trị. Nếu mức CD4 của bạn thấp trong vài tháng, bác sĩ có thể khuyên bạn nên bắt đầu điều trị dự phòng các bệnh nhiễm trùng cơ hội như viêm phổi do Pneumocystis carinii (Jiroveci) (PCP) và Candida (một loại nấm). Bất cứ điều gì khác tôi nên biết?
CD4 có xu hướng thấp vào buổi sáng và cao vào buổi tối. Các bệnh cấp tính như viêm phổi, cúm hoặc nhiễm vi rút herpes simplex có thể làm giảm số lượng CD4 tạm thời. Hóa trị ung thư có thể làm giảm đáng kể số lượng CD4.
CD4 không phải lúc nào cũng phản ánh cách một người nhiễm HIV, cảm lạnh thông thường hoặc cách họ hoạt động. Ví dụ, những người có số lượng CD4 cao bị bệnh và có các biến chứng thường xuyên, trong khi những người có số lượng CD4 thấp có ít biến chứng y tế hơn và hoạt động tốt hơn.
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) gợi ý rằng những người nhiễm HIV có CD4 dưới 200 tế bào / mm3 bị AIDS (nhiễm HIV Giai đoạn III), có hoặc không có dấu hiệu và triệu chứng.
Các câu hỏi thường gặp
- Nhiễm HIV được chẩn đoán như thế nào?
Nhiễm HIV thường được sàng lọc bằng xét nghiệm kháng thể HIV hoặc xét nghiệm kết hợp kháng thể và kháng nguyên HIV (p24). Nếu xét nghiệm sàng lọc dương tính, cần thực hiện một xét nghiệm khác, chẳng hạn như xét nghiệm kháng thể thứ cấp có thể phân biệt giữa HIV-1 và HIV-2. Nếu kết quả của xét nghiệm thứ nhất và thứ hai không khớp nhau, xét nghiệm HIV-1 RNA (Xét nghiệm khuếch đại axit nucleic, NAAT) sẽ được thực hiện. Nếu xét nghiệm kháng thể thứ cấp hoặc ARN HIV-1 dương tính, người xét nghiệm được chẩn đoán nhiễm HIV.
- Đếm CD4 có thể được sử dụng cho các bệnh khác ngoài nhiễm HIV không?
Vâng. Nó có thể được chỉ định nếu bạn đã cấy ghép nội tạng để đánh giá hiệu quả của thuốc ức chế miễn dịch. Trong quá trình cấy ghép, hệ thống miễn dịch phải được ngăn chặn để nó không tấn công cơ quan được cấy ghép và gây ra sự đào thải. Trong trường hợp này, nồng độ tế bào CD4 thấp là mong muốn và số lượng giảm cho thấy phản ứng với thuốc. Số lượng CD4 có thể được lặp lại định kỳ để theo dõi hiệu quả điều trị.
CD4 đôi khi được lấy cùng với số CD8. Tế bào CD8 là một loại tế bào lympho được gọi là tế bào T ức chế hoặc tế bào T gây độc tế bào. Tế bào CD8 xác định và tiêu diệt các tế bào bị nhiễm virus và các tế bào bị ung thư.
Đánh giá tế bào CD4 và CD8 giúp phân loại u lympho. Ngoài CD4 và CD8, một số dấu hiệu trên bề mặt tế bào lympho thường được đánh giá. Các xét nghiệm có thể giúp xác định xem ung thư hạch có phải do sự gia tăng tế bào lympho B hoặc T và loại cụ thể của chúng hay không. Thông tin này sẽ giúp xác định phương pháp điều trị thích hợp. Các xét nghiệm này cũng có thể giúp chẩn đoán hội chứng DiGeorge, một chứng rối loạn bẩm sinh hiếm gặp đặc trưng bởi lượng tế bào T trong máu thấp.