Search
Close this search box.

Giun sán chó và những điều cần biết

Giun sán chó là một loại giun gây ra bệnh sán chó ở người, hay còn gọi là bệnh nhiễm sán chó Toxocara. Bệnh giun sán chó có thể không gây nguy hiểm nhưng nếu phát hiện muộn sẽ gây ra biến chứng nặng ở nhiều cơ quan trong cơ thể thậm chí là tử vong.

1. Nguồn gốc của Giun sán chó

Giun sán chó cùng với một số loại chủng khác có liên quan đến giun sán chó: Toxocara cati hay thường gọi là giun đũa mèo. Xuất hiện khắp mọi nơi trên thế giới kể cả ở thành thị hay nông thông ngay cả những nước tiên tiến vẫn có khả năng nhiễm và thậm chí bị nhiễm nhiều.

Bệnh giun sán chó (dân gian hay gọi là sán chó), còn có tên gọi khoa học khác là Toxocara. Chúng được ký sinh trong ruột non của chó, thường bắt gặp ở 80% chó vùng nhiệt đới và 17 – 20% chó ở vùng ôn đới. Giun trưởng thành sống ở ruột non của chó con dưới 3 đến 6 tháng tuổi; giun đẻ khoảng 200.000 trứng mỗi ngày sau đó, trứng giun đi ra ngoài theo đường bài tiết của phân chó và có thể sống ở ngoài môi trường nhiều tháng; khi chó lớn hơn, do cơ chế miễn dịch, giun trong ruột sẽ bị đẩy ra ngoài. Nếu chó vô tình nuốt phải trứng giun, một số ấu trùng lên phổi và phát triển thành giun trưởng thành ở ruột non, một số khác tiếp tục di chuyển trong các cơ quan nội tạng.

Người bị mắc bệnh giun sán chó thường do nuốt phải trứng hay do ăn trúng các loại vật chủ ăn thịt khác có chứa ấu trùng. Do đó, trẻ em từ 1 – 4 tuổi thường có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn. Thông qua những nghiên cứu, có thể khẳng định trẻ em bị nhiễm Toxocara cao nhất là do có tập quán ăn đất trong quá trình vui chơi, giải trí. Sau khi tiêu hóa, ấu trùng tách ra khỏi trứng trưởng thành và di chuyển bằng con đường máu để đi đến những cơ quan khác trong cơ thể. Chúng có thể chu du vài lần đến các mô, sau đó đóng kén thành ấu trùng và tạo u hạt, làm tăng bạch cầu ái toan ở tất cả các cơ quan chính của cơ thể, trong đó bao gồm não và mắt.

word image 21333 1

2. Hình thức lây nhiễm

2.1 Ở chó và mèo

  • Trực tiếp bằng con đường tiêu hóa trứng do nhiễm ấu trùng từ đất.
  • Gián tiếp thông qua ăn thịt của các loại vật chủ khác
  • Nhiễm trùng chu sinh (chỉ có giun sán chó)
  • Thông qua con đường phân để tiêu hóa ấu trùng
  • Lây truyền qua đường sữa

2.2 Ở người

  • Thông qua việc trực tiếp hay gián tiếp tiếp xúc tay với các vật bị nhiễm ấu trùng.
  • Gián tiếp qua cách ăn trúng đất, phân hay các thực phẩm (thịt, rau…) có trứng giun sán chó ký sinh.

3. Các đặc điểm lâm sàng

Khi giun sán chó đi vào cơ thể người, chúng sẽ di chuyển ở cơ thể người trong vài tháng cho đến nhiều năm, làm tổn thương ở những bộ phận cơ thể mà chúng đi qua. Người bệnh mắc sán chó thường hay bị ngứa da tái đi tái lại, điều trị không dứt hẳn. Ngoài ra ở một số người còn có các biểu hiện như: gan to; sốt hoặc có các triệu chứng của phổi như ho, đau ngực; đau bụng, khó tiêu,… Các triệu chứng này có thể kéo dài đến hàng tháng, hàng năm, do đó người bệnh ít khi nghĩ đến việc mình bị nhiễm giun.

Tùy thuộc vào số lượng ấu trùng mà gây ra mức độ tổn thương của cơ thể và đồng thời xuất hiện các triệu chứng ở người bệnh khác nhau, cũng như các cơ quan mà chúng xâm nhập bao gồm: gan, phổi, hệ thần kinh trung ương, mắt… Trong đó, hai thể thường thấy nhất ở cơ thể người bệnh là ấu trùng di chuyển ở nội tạng và mắt.

Ở nội tạng, người bị mắc bệnh có các triệu chứng như: sốt, gan to và bị hoại tử, lách to, triệu chứng hô hấp giống với hen suyễn.

Ở mắt, các triệu chứng hay thường gặp đối với người bị nhiễm sán chó là giảm thị lực một bên mắt hoặc đôi khi bị lé. Mức độ suy giảm thị lực tùy thuộc vào vùng bị tổn thương nhiều hay ít (võng mạc, điểm vàng), từ đó có thể dẫn đến mù lòa vĩnh viễn.

word image 21333 2

4. Các thể bệnh giun sán chó ở người

4.1. Bệnh do ấu trùng sán chó di chuyển đến nội tạng

Người mắc bệnh do ấu trùng giun sán chó di chuyển đến nội tạng thường hay gặp ở trẻ em từ 1- 4 tuổi hơn là người lớn. Bệnh khởi phát từ từ và có thể xuất hiện các triệu chứng như: sốt nhẹ, ăn ít, gầy, tiêu chảy, buồn nôn, ói mửa, đau cơ và khớp. Ho có đờm đối với người có thâm nhiễm bạch cầu ái toan, khó thở, gan to, bờ mặt nhẵn, không đau, đôi khi kèm lách to. Sau nhiều tuần nếu ấu trùng chết đi thì bệnh có thể tự khỏi.

Ở người trưởng thành, khi nhiễm bệnh thường có các triệu chứng như: sốt nhẹ, mệt mỏi, suy nhược, ngứa, mày đay, khó thở dạng giả hen, khò khè, viêm phổi, tràn dịch màng phổi, hiếm hơn có thể gặp suy hô hấp.

Gan thường là cơ quan bị xâm nhiễm nặng nhất và triệu chứng gan to là biểu hiện thường gặp, dù bất kỳ cơ quan nào bị ảnh hưởng. Tổn thương gan giống như một khối u dễ nhầm với ung thư hay ung thư nơi khác di căn tới. Trong Y học đã ghi nhận nhiều trường hợp có lách to hay nổi hạch đi kèm, sang thương da như nổi mày đay và các nốt dưới da cũng đã được ghi nhận.

Một số trường hợp gây viêm cơ, viêm mô dưới da, viêm dạ dày, báng bụng, bệnh lý giãn cơ tim, khối giả u ở tim gây đột tử. Trường hợp bệnh nặng có xâm nhiễm nhiều cơ quan như gan, lách, phổi, não. Nhiễm giun sán chó lan tỏa thường gặp ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch.

4.2. Bệnh do ấu trùng di chuyển đến hệ thần kinh

Được xem là một trong những thể bệnh đặc biệt do ấu trùng di chuyển đến nội tạng, thường gặp ở bệnh nhân tuổi trung niên. Bệnh nhân thường có các triệu chứng liên quan đến hệ thần kinh như rối loạn giấc ngủ, yếu cơ, yếu chi, suy nhược cơ, rối loạn tiểu – đại tiện. Tổn thương ở hệ thần kinh trung ương hiếm gặp hơn, nhưng khi mắc phải thì có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng và hậu quả khiến cho bệnh nhân bị yếu cơ, rối loạn cảm giác, co giật, động kinh, hôn mê.

Các biểu hiện lâm sàng trên hệ thống thần kinh trung ương khi bị ấu trùng xâm nhập bao gồm: viêm não, viêm màng não tăng bạch cầu ái toan,hoặc viêm màng nhện, viêm tủy sống, v.v, rối loạn tâm thần kinh, thường bệnh nhân còn kèm theo triệu chứng sốt và nhức đầu. Một số trường hợp còn bị ảnh hưởng đến thần kinh ngoại biên (viêm tủy rễ, viêm thần kinh sọ não và dị cảm cơ xương).

4.3. Bệnh do ấu trùng sán chó di chuyển ở mắt

Bệnh do ấu trùng sán chó di chuyển ở mắt cũng hay gặp ở trẻ em lớn tuổi, có hoặc không kèm bệnh lý giun sán chó ở nội tạng khác. Ấu trùng xâm nhập có thể làm giảm thị lực thường ở một bên mắt, hoặc cũng có thể ảnh hưởng hoàn toàn đến hai bên mắt, soi đáy mắt thấy dạng viêm hạt ở võng mạc, viêm kết mạc, hoặc viêm nội nhãn do ấu trùng di chuyển còn sống hoặc có thể đã chết gây tái hoạt miễn dịch. Nguy hiểm hơn là có thể bị mù do tình trạng viêm mống mắt, phù mô và bong võng mạc không điều trị kịp thời. Triệu chứng xuất hiện điển hình nhất là giảm thị lực một bên, đau mắt, đồng tử trắng, lác mắt kéo dài nhiều tuần. Ngoài ra triệu chứng thường gặp nhất là u võng mạc cực sau, dễ nhầm với ung thư võng mạc. Đôi khi ở mắt còn gặp viêm màng bồ đào, áp xe thủy tinh thể, viêm thần kinh thị giác và bội nhiễm. Thường một mắt bị bệnh, hiếm khi cả hai mắt. Bệnh nhân bị mắc phải ở mắt thường không thấy tăng bạch cầu ái toan, gan to hay các triệu chứng khác mà do ấu trùng di chuyển đến nội tạng thường gặp, cũng như người có tiền sử nghịch đất, tật ăn đất hay chơi với chó, mèo con.

5. Điều trị

Có thể sử dụng thuốc và liều lượng như sau:

  • Thiabendazole 25mg/kg, 2 lần/ngày trong vòng 21 ngày.
  • Dietylcarbamazine 3mg/kg, 3 lần/ ngày trong 21 ngày.
  • Sử dụng Albendazole cũng được ki có hiệu quả trong trường hợp nhiễm giun đũa chó, với liều cao 800mg/ ngày trong 2-3 tuần.
  • Thuốc chống dị ứng như: Telfast, cetirizine, loratadine…
  • Với một số trường hợp có thể phải dùng thuốc diệt KST phối hợp với corticoid hoặc phẫu thuật đối với người bị nhiễm Toxocara ở mắt.

word image 21333 3

Các biện pháp phòng bệnh

  • Hạn chế tối đa tiếp xúc với các vật chủ nhạy cảm hay động vật chó mèo bị nhiễm và môi trường nghi ngờ có bệnh;
  • Kiểm tra phân của thú cưng chó mèo hàng tuần và tẩy giun mỗi tháng đều đặn cho đến khi phân trở nên âm tính;
  • Phải có quy trình kiểm tra phân định kỳ mỗi năm và có kế hoạch điều trị cần thiết khi động vật nuôi bị nhiễm bệnh;
  • Cấm chó chạy trong khu vườn chơi trẻ con, công viên hoặc các hộp cát tông tạm trú của chó;
  • Nhanh chóng loại bỏ các thùng chứa phân chó;
  • Kiểm soát chặt chẽ các loại vật nuôi chó mèo và buộc dây xích, hay có luật nuôi rõ ràng.
  • Rửa tay sạch sẽ cho trẻ em sau khi chơi ở nơi có đất cát và vật nuôi.
  • Giáo dục sức khỏe cho cha mẹ tránh khỏi những nguy cơ tiềm tàng có thể có.

Ấu trùng giun sán chó mèo Toxocara canis khi bị xâm nhập vào thành ruột của con người sẽ đi theo con đường máu đến gan, phổi, não và các cơ quan khác. Ở những cơ quan này, ấu trùng sẽ dịch chuyển và sống hàng tuần hoặc hàng tháng, hoặc nằm im, tạo thành những vật lạ gây viêm và kích thích tạo u hạt. Tuy nhiên, do người là ký chủ ngẫu nhiên nên ký sinh trùng không có thể phát triển đến giai đoạn trưởng thành. Do đó, không thể tìm thấy trứng trong phân của người nhiễm.

Ở người, trẻ em từ 4 tuổi – 12 tuổi thường dễ mắc bệnh nhất và có liên quan đến thần kinh do nhiễm giun sán chó mèo. Bởi đa số bệnh nhi được xác định là những đối tượng có hành vi nguy cơ như tiếp xúc với chó mèo, tiếp xúc với đất… Trẻ đi mẫu giáo, hay nhà trẻ thường thích nghịch đất, ăn đất, ngậm liếm đồ chơi, mút tay. Có đến 30% trẻ ở lứa tuổi này rất hay cho tay vào miệng. Còn các trẻ lớn hơn thì thường lại chơi nhiều trò chơi tiếp xúc với đất như: đá banh, bồng bế chó mèo… Ở người lớn, bệnh thường gặp ở mọi lứa tuổi, nhiều nhất là trong khoảng độ tuổi lao động. Bệnh xảy ra ở những người thường không rửa tay sạch sau khi tiếp xúc với đất, chơi và bồng bế chó mèo. Nếu được thì chúng ta chỉ nên cho trẻ chơi ở những nơi không có chó mèo lui tới. Người lớn cần giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ, đặc biệt là phải rửa tay trước khi ăn. Đối với các loại chó mèo được nuôi như vật cưng trong nhà, chúng ta cần có biện pháp xổ giun định kỳ cho chó mèo để tránh những rủi ro tiềm ẩn không đáng có .

Bệnh giun sán chó là bệnh có thể phòng và điều trị được, càng sớm càng tốt. Hy vọng qua các thông tin đã được tổng hợp ở trên thì bạn đọc có thể hiểu, biết và có thêm nhiều thông tin bổ ích hơn về bệnh Giun sán chó cũng như cách phòng ngừa điều trị sớm nhất khi mắc phải.

Xem thêm: GIẢI ĐÁP: NẾU BỊ SÁN CHÓ CÓ MANG THAI ĐƯỢC KHÔNG

Xem thêm: THỜI GIAN Ủ BỆNH SÁN CHÓ

Thông tin và sản phẩm gợi ý trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc chuyên viên y tế tại GALANT để được tư vấn cụ thể. >>Xem thêm thông tin

Bác Sĩ Hiếu Galant

Bác sĩ CKI

Phạm Thanh Hiếu

Đã kiểm duyệt nội dung

Bác sĩ Phạm Thanh Hiếu, chuyên khoa HIV và STDs với hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành, hiện đang là Trưởng khoa tại Phòng khám Đa khoa GALANT.
Xem thêm thông tin >

Bài viết liên quan:

CHƯƠNG TRÌNH
BÀI VIẾT KIẾN THỨC

Dự phòng trước phơi nhiễm HIV hiệu quả 99%