Search
Close this search box.

Nhiễm sán dây: Nguyên nhân và cách điều trị

Sán dây là loại ký sinh trùng có cơ thể dẹt màu trắng sữa, gồm nhiều đoạn cơ thể nối tiếp nhau nhưng không có cơ quan tiêu hóa. Nó được đặt tên là sán dây vì cơ thể dài và mảnh mai của nó. Sán dây ký sinh ở người thường gây bệnh nhẹ, không có triệu chứng, dễ điều trị nhưng cũng có thể đe dọa đến tính mạng. Do đó, chúng ta cần nhận thức được các triệu chứng, nguyên nhân và tự trang bị cho mình những cách để bảo vệ bản thân và gia đình khỏi những mầm bệnh sán dây tiềm ẩn này.

Nhiễm sán dây là gì?

Sán dây (còn gọi là sán dây) gây nhiễm trùng ký sinh trong ruột. Trứng của các loại sán dây (sán dây lợn, sán dây bò, sán dây cá…) được đưa vào người qua đường miệng từ động vật, nhất là do thói quen ăn thịt sống, tái hoặc nấu chưa chín. Cơ thể bị nhiễm đỉa thường có các biểu hiện nhẹ, không đặc hiệu như mệt mỏi, đau bụng, tiêu chảy. Các triệu chứng cũng khác nhau tùy thuộc vào loại sán dây.

Phân loại sán dây

Sán dây không thể sống tự do ở ngoại cảnh mà cư trú trong ruột động vật và người. Ở người, sán dây ký sinh khi trưởng thành và ấu trùng. Tùy theo loại vật chủ trung gian (trâu bò, lợn, cá…) mà các loại sán dây xâm nhiễm vào người và gây bệnh có khác nhau.

Sán dây lợn

Sán trưởng thành: Dài 2-4 m với khoảng 800-1.000 đốt gồm đầu, cổ và sán dây. Trứng: Hình cầu, vỏ dày, đường kính khoảng 35 mcm, chứa phôi có 6 móc. Nang ấu trùng (Cysticercus cellulosae): màu trắng sữa, kích thước 10 x 8 mm, chứa dịch lỏng và đầu ấu trùng sán. Đầu ấu trùng có bốn giác hút và hai hàng móc, giống như đầu của đỉa trưởng thành. 

Sán dây bò

Sán trưởng thành: dài 4–10 m, đầu hình quả lê, đường kính 1–2 mm, có 4 giác hút, không có thùy và móc. Các đốt sống cũ dài hơn 2,5-3 lần so với chiều rộng và giun tự động bò ra ngoài và có thể tìm thấy trên chăn và quần áo. Trứng: có kích thước 30-40 cm, gần giống trứng sán dây lợn. Nang ấu trùng (Cysticercus bovis): Nhỏ hơn nang ấu trùng sán dây lợn, kích thước 6-8 mm x 3-5 mm, màu đỏ do chứa myoglobin và có đầu ấu trùng bên trong. 

Sán dây cá

Sán trưởng thành: Sán lớn nhất ký sinh ở người, màu trắng nhạt hoặc vàng xám, dài 10-12 m, đôi khi dài 20 m, có 3.000-4.000 đốt. Đầu Fluke nhỏ, hình bầu dục, 2,3 mm x 0,7 mm, không có giác hút nhưng có hai rãnh hút. Các đốt trưởng thành có hình thang, ngắn hơn rộng và có kích thước 10–12 mm x 3–4 mm. Trứng: vỏ màu nâu, mỏng, có nhiều cặn, tương tự như trứng đỉa nhưng nhỏ hơn, kích thước 70 x 45 mcm (1 mm = 1.000 mcm), khi đẻ ra không có phôi.

Sán dây lây nhiễm cho người qua đường nào?

Ký sinh trùng chia sán dây thành hai lớp:

Sán dây ký sinh ở người ở giai đoạn trưởng thành (ký sinh ở ruột). Người là vật chủ thường trực của sán dây lợn, sán dây vừa và sán dây nhỏ.

Bởi vì sán dây bị “lây nhiễm nhầm” chứ không phải là động vật, sán dây lây nhiễm cho con người trong giai đoạn ấu trùng, khi con người là vật chủ trung gian (di cư của ấu trùng di cư).

Khi ấu trùng nang được ăn sống, chẳng hạn như thịt lợn hoặc thịt bò, các nang xâm nhập vào cơ thể sẽ phát triển thành sán dây lợn và bò trưởng thành, ký sinh trong ruột non của con người. .

Khi ăn phải trứng sán dây lợn (thường có trong rau, quả tươi, nước uống… do không được rửa sạch), trứng sẽ phát triển thành ấu trùng sán dây lợn bên trong cơ thể, gây bệnh ấu trùng sán dây lợn ( bệnh Leismann). Trường hợp này ít gặp ở ấu trùng sán dây bò.

>> Xem thêm: SÁN LÃI VÀ MỘT SỐ LOẠI GIUN KHÁC THƯỜNG GẶP Ở TRẺ EM

Triệu chứng nhiễm sán dây

bệnh sán dây trưởng thành

Các triệu chứng khi nhiễm sán dây trưởng thành thường nhẹ và không có triệu chứng cụ thể. Xét nghiệm phân tìm thấy sán dây. 

Trong một số trường hợp, các triệu chứng như buồn nôn, nhức đầu, tiêu chảy từng đợt và sụt cân có thể xảy ra. Đau bụng phát ra do sán di chuyển từ ruột non qua ruột già đến manh tràng có thể cọ xát vào các van cuối. Trẻ bị suy nhược thần kinh có thể biểu hiện các triệu chứng co giật, tâm trạng thất thường, mắc bệnh tim mạch. Đôi khi bệnh nhân mắc hội chứng thiếu máu do thiếu B12.Larvae gây bệnh

Trong quá trình di cư trong cơ thể, ấu trùng sán dây có thể gây bệnh nặng nếu xuất hiện ở các vùng da, gan, phổi, mắt, cơ và mô dưới da và đặc biệt nguy hiểm nếu ở não. Biến chứng nặng có thể gây tử vong. Ở người, ấu trùng của Taenia solium gây tổn thương nhiều cơ quan nội tạng và ấu trùng của Echinococcus Granulosus và E. multilocularis gây ra chứng ứ nước phế nang. Ấu trùng của Spirometra spp., Spirometra erinacei, cũng có thể lây nhiễm sang người.

Nguyên nhân nhiễm sán dây

Ăn trứng nhiễm sán

Trứng xâm nhập vào người qua ba con đường chính: thức ăn, nước và đất bị ô nhiễm.

Nếu sán dây có trong vật chủ (lợn, bò, v.v.), sán dây hoặc trứng có thể có trong phân của vật chủ và rơi xuống đất. Mỗi nút có thể chứa hàng nghìn quả trứng.

Một người có thể bị nhiễm sán dây do:

uống nước ô nhiễm

Tay bẩn do tiếp xúc với động vật hoặc đất bị ô nhiễm

Tiêu thụ thực phẩm bị ô nhiễm, đặc biệt là rau và trái cây. Ấu trùng nở ra từ trứng, xâm nhập vào ruột, di chuyển và lây nhiễm các bộ phận khác của cơ thể. Loại nhiễm trùng này phổ biến nhất với sán dây lợn.

Ăn thịt cá nhiễm bệnh

Nếu thịt hoặc cá chứa nang ấu trùng chưa được nấu chín hoặc chưa sống, những nang này có thể xâm nhập vào ruột và phát triển thành sán dây trưởng thành.

Sán dây trưởng thành có các đặc điểm sau:

Sống đến 20 năm

Chiều dài lên đến 15m

dính vào thành ruột

Đi qua hệ thống tiêu hóa của con người và được bài tiết trong phân

Nhiễm sán dây cá phổ biến hơn ở các quốc gia thường tiêu thụ cá sống, chẳng hạn như Đông Âu, các nước Scandinavia (như Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển) và Nhật Bản. Các loại cá nước ngọt sống hoặc nấu chưa chín như cá hồi là nguồn lây nhiễm phổ biến nhất.

Lây nhiễm từ người sang người

Sán dây lùn có thể truyền từ người này sang người khác. Đây cũng là loài sán dây duy nhất có thể dành toàn bộ vòng đời của mình trong một vật chủ. Nhiễm sán dây lùn là bệnh nhiễm sán dây phổ biến nhất trên toàn thế giới.

Lây từ côn trùng

Bọ chét và các loại bọ ve khác có thể lấy trứng từ chuột cống và chuột nhắt bị nhiễm bệnh. Những loài côn trùng này có thể lây nhiễm sang người với tư cách là vật chủ trung gian và sán dây được truyền từ trứng sang người trưởng thành. Loại nhiễm trùng này xảy ra ở sán dây lùn và phổ biến hơn ở những khu vực có điều kiện vệ sinh kém.

Tái nhiễm sán

Việc không tuân thủ các biện pháp vệ sinh tốt có thể dẫn đến tái nhiễm trùng trong quá trình điều trị. Trứng có trong phân người và việc không rửa tay sau khi đi vệ sinh làm tăng nguy cơ tái nhiễm.

Yếu tố gây nguy cơ nhiễm sán dây

Tiếp xúc với công việc hoặc động vật: Thường xảy ra ở những nơi phân không được kiểm soát hiệu quả. Việc nuôi lợn, giết mổ lợn thả rông là không tốt. Vệ sinh kém: Không rửa tay thường xuyên làm tăng nguy cơ nhiễm trùng răng miệng. Đi du lịch hoặc sống ở một số khu vực có điều kiện vệ sinh kém làm tăng nguy cơ nhiễm sán dây. Ăn thịt và cá sống hoặc nấu chưa chín: Ấu trùng và trứng trong thịt và cá có thể lây nhiễm sang người nếu ăn sống hoặc nấu chưa chín. Nguy cơ ô nhiễm cá chủ yếu thuộc nhóm cá nước ngọt.

Phương pháp chẩn đoán

Nếu bạn nghi ngờ bị nhiễm sán dây hoặc có các triệu chứng nhiễm sán dây, hãy liên hệ với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe đáng tin cậy để được tư vấn y tế. Một số người cũng có thể nhìn thấy vết cắn của sán dây trưởng thành trong phân của họ. Tuy nhiên, xét nghiệm mẫu phân vẫn được yêu cầu. Trong quá trình kiểm tra, bác sĩ cũng có thể nhìn xung quanh hậu môn của bạn để tìm dấu hiệu của trứng hoặc ấu trùng.

Tùy thuộc vào loại nhiễm ấu trùng sán dây, có các công cụ chẩn đoán sau:

Xét nghiệm máu: Những xét nghiệm này tìm kiếm các kháng thể do nhiễm trùng gây ra. Trong hội chứng ấu trùng di chuyển, bạch cầu ái toan trong máu tăng nhẹ 11-12%. Hình ảnh: Các kỹ thuật được thực hiện có thể bao gồm chụp X-quang ngực, siêu âm, chụp CT hoặc chụp MRI. Kiểm tra các cơ quan nội tạng của bạn để xem chúng có hoạt động bình thường không. Xét nghiệm phân: phát hiện ký sinh trùng, giun, đũa,…

Phương pháp của Graham – Phương pháp băng keo trong: Dán băng dính trong suốt lên vành hậu môn, bóc ra, dán lên lam kính và tìm trứng dưới kính hiển vi.

>> Xem thêm: TÁC HẠI GIUN ĐŨA VÀ CÁCH PHÒNG NGỪA LÂY NHIỄM BỆNH GIUN ĐŨA

Điều trị về giun sán

Thuốc

Sử dụng thuốc nhuận tràng để loại bỏ sán dây khỏi ruột của bạn. Nếu bệnh nhân bị nhiễm sán dây, bác sĩ có thể kê toa một số phương pháp điều trị. Khoảng 1 đến 3 tháng sau khi dùng thuốc, phân của người đó được kiểm tra nhiều lần. Những loại thuốc này có hiệu quả 95% khi được sử dụng đúng cách. 

Thuốc chống viêm

Nếu nhiễm trùng ảnh hưởng đến các mô bên ngoài ruột, người đó có thể cần dùng một đợt thuốc chống viêm steroid để giảm sưng do sự phát triển của u nang. phẫu thuật u nang

Phẫu thuật có thể cần thiết nếu bệnh nhân có u nang đe dọa tính mạng đã phát triển trong một cơ quan quan trọng như phổi hoặc gan. Có thể tiêm thuốc (chẳng hạn như formalin).

CHƯƠNG TRÌNH
BÀI VIẾT KIẾN THỨC

Dự phòng trước phơi nhiễm HIV hiệu quả 99%