Giun sán là thuật ngữ chung chỉ các loại ký sinh trùng lây nhiễm và gây bệnh cho người và động vật. Trên thực tế, bệnh giun sán được phân biệt rõ ràng dựa trên hình dạng ký sinh trùng. Con giun thường tròn và đầu sán thường dẹt. Vì lý do này, giun kim và sán dây rất khác nhau nên một số người không quen thuộc với chúng và một số người lầm tưởng rằng giun kim và sán dây là một.
Tổng quát về giun sán
Giun sán là một thuật ngữ chung cho ký sinh trùng lây nhiễm cho người và động vật. Vì giun thường có hình tròn nên còn được gọi là giun tròn (tuyến trùng), bao gồm giun tròn, giun tóc, giun móc, giun kim, giun tròn, giun chỉ, giun xoắn… ;)… Bệnh giun sán ở người và động vật có quan hệ họ hàng với nhau, đặc biệt là bệnh giun sán vật nuôi ở các loài động vật sống gần con người như chó, mèo, lợn, vịt… được chăm sóc y tế. Ngoài các loại giun sán ký sinh gây bệnh cho người, con người còn có thể bị nhiễm bệnh giun sán từ động vật nuôi trong nhà, kể cả bệnh giun sán từ động vật hoang dã. Khi nhiễm giun sán của động vật nuôi hoặc hoang dã, bệnh rất khó chẩn đoán và thường có các phản ứng rất mạnh của cơ thể như sốt cao và tăng bạch cầu ái toan. Một bác sĩ nhận biết và chẩn đoán bệnh.
Đặc trưng bệnh giun kim
Giun kim (Enterobius vermicularis)
Giun kim (Enterobius vermicularis) là một loại giun nhỏ hình ống, màu trắng sữa, đầu hơi nhô ra và có hai gờ hình lăng trụ chạy như hai gờ ở hai bên thân. đuôi nhọn. Miệng có ba môi nhỏ và đoạn cuối thực quản có chỗ phình ra đặc trưng của giun kim. Giun cái dài 8–13 mm và đường kính 0,3–0,5 mm. Giun đực nhỏ, dài 2–5 mm và đường kính 0,1–0,2 mm. Đuôi cong về phía bụng và có gai sinh dục ở cuối đuôi. Giun kim có vòng đời trực tiếp không phụ thuộc vào các yếu tố địa lý và khí hậu. Con người là vật chủ duy nhất của giun kim. Trẻ em, đặc biệt là trẻ mẫu giáo và học sinh phổ thông là lứa tuổi dễ bị tổn thương, có tỷ lệ mắc bệnh cao. Các bệnh lưu hành thường có tính chất gia đình và cộng đồng như: Trong các trường mẫu giáo, ký túc xá văn phòng, v.v. Mật độ dân số là một yếu tố quan trọng trong việc truyền bệnh và tái nhiễm. Trứng và ấu trùng giun kim có thể lây lan khắp nơi: chăn, chiếu, ghế, hóa đơn… Giun kim cũng phổ biến trên toàn thế giới, với tỷ lệ nhiễm cao ở cả các nước đang phát triển và đang phát triển. Ở Việt Nam, tỷ lệ nhiễm giun kim dao động từ 19% đến 47%, trong đó trẻ em thành thị mắc nhiều hơn trẻ em nông thôn, nữ mắc nhiều hơn nam. Mật độ nhiễm giun kim tăng nhanh từ 1 đến 5 tuổi sau đó giảm dần. Những đứa trẻ sống trong các nhóm có nhiều khả năng bị nhiễm giun kim hơn những đứa trẻ sống trong gia đình.
Khi bị nhiễm giun kim, người bệnh thường có cảm giác ngứa hậu môn, ngứa ngáy hoặc buổi tối trước khi đi ngủ do giun kim cái đẻ trứng vào thời điểm này. Nhiệt độ giường, chăn ấm khi đi ngủ kích thích giun cái chui vào hậu môn và đẻ trứng. Giun kim cũng có thể xâm nhập vào ruột non, xâm nhập vào thành ruột cạnh ruột thừa rồi xâm nhập vào ruột thừa gây viêm ruột thừa. Tổn thương đường ruột khiến người bệnh bị rối loạn tiêu hóa như chán ăn, buồn nôn, đau bụng ở trẻ em… Các triệu chứng rối loạn thần kinh cũng được ghi nhận như: xanh xao, hốc hác… Ngoài ra, giun kim còn có thể gây hại cho cơ quan sinh dục nữ vì chúng thường chui vào các nếp gấp ở hậu môn để đẻ trứng và vào cơ quan sinh dục nữ như âm hộ, âm đạo để sinh sản. , viêm nhiễm dẫn đến viêm âm hộ, viêm âm đạo, đau bụng kinh… Một số trường hợp chúng có thể xâm nhập vào tử cung, buồng trứng và gây viêm nhiễm tại đó. Nếu trẻ nhiễm giun kim lâu ngày mà không được can thiệp sẽ ảnh hưởng đến khả năng phát triển của trẻ như xanh xao, chán ăn, chướng bụng, chậm lớn, suy dinh dưỡng…
Đặc trưng của bệnh sán
Sán dây (Echinococcus Granulosus) thực sự là những con sán dây rất nhỏ và dài.
(Hạt Echinococcus) 3-6 mm, rộng 0,3 mm. Đầu hình quả lê, thân gồm 3-4 đốt. Đầu nhô ra có 4 ly và vòng móc có 28-50 móc. Đoạn thứ nhất không có bộ phận sinh dục, đoạn thứ hai lưỡng tính, đoạn thứ ba dài và rộng có tử cung kín chứa 500-800 trứng. Chúng có ấu trùng bên trong trứng và giống như tất cả các loại sán dây, chúng có sáu móc. Giun kim phổ biến ở nhiều nước Châu Phi, Châu Mỹ, Nam Úc, Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, Philippines, Việt Nam và các nước Châu Á khác. Vật chủ chính của sán dây là chó nhà, chó rừng và đôi khi cả cáo. Do quá trình phát triển của vật chủ, các bộ phận già của sán tự động rời khỏi hậu môn, vỡ ra và phát tán trứng khắp nơi. Sán dây khi đốt ngoài hậu môn còn gây ngứa, chó liếm đỡ ngứa, lông chó bám nhiều trứng sán, khi tiếp xúc có thể dùng ở cừu, trâu, bò, ngựa, dê, lợn. Nó dễ dàng lây nhiễm các loại vật chủ thứ cấp khác như cừu. Con người là vật chủ phụ ngẫu nhiên. Khi con người hoặc động vật ăn phải trứng, trứng sẽ đi vào tá tràng và ấu trùng được giải phóng vào thành ruột và đi vào hệ tuần hoàn hệ thống thông qua các tĩnh mạch và mạch bạch huyết. Sau đó ấu trùng mất đi và hình thành các túi.
Sau khoảng 5 tháng, thành nang có đường kính khoảng 10 mm. Nang sán chứa đầy nước. Có ba loại u nang ở người: u nang đơn, u nang xương và u nang cơ. Loại u nang đầu tiên phổ biến ở người nhưng hiếm gặp ở động vật. U nang phát triển trong nhiều năm, có hình tròn và thường xuất hiện ở gan, phổi, thận, xương, não và những nơi khác như cơ, lá lách, tim và mắt. Nang sán có vỏ dày khoảng 1 mm và màng sinh sản dày 22–25 μm với dịch nang màu vàng nhạt bên trong. Nang đẻ chỉ có màng sinh dục bên trong chứa đầu của đỉa. U nang con gái có cấu trúc lặp lại cấu trúc của u nang mẹ. Khi nang vỡ có nhiều đầu sán non chui ra khỏi nang nở chui vào dịch nang. Một nang trung bình chứa khoảng 2 triệu đầu sán non. Nếu một con chó ăn phải một nang, sau bảy tuần, nó sẽ có hàng triệu con sán trưởng thành trong cơ thể. Khi nang vỡ ra bên trong cơ thể vật chủ, đầu sán non phát triển thành nang mới gọi là nang thứ cấp. Ascocysts trong dịch nang có thể dẫn đến u nang.
Con người là vật chủ thứ cấp tình cờ của sán dây. U nang ký sinh phát triển khi con người nuốt phải trứng sán dây tìm thấy trong phân chó. U nang có thể chèn ép ruột và các cơ quan xung quanh, gây ra các biến chứng nghiêm trọng. Tùy thuộc vào nội địa hóa ký sinh của u nang, nó gây ra nhiều thiệt hại. Khi nang vỡ có thể dẫn đến nhiễm độc, dị ứng, sốc mẫn cảm, đầu đỉa trồi lên tạo thành nang thứ cấp. Sau khi nang nguyên phát vỡ, nang thứ cấp có thể xuất hiện sau 2-5 năm và thường gây tử vong ở giai đoạn này. Rất khó chẩn đoán những người bị u nang sán dây vì u nang phát triển chậm hơn các loại khối u khác. Chính vì vậy việc phát hiện bệnh chưa kịp thời, như nang sán dây ký sinh vùng hầu họng. Chụp X-quang và siêu âm có thể phát hiện sớm u nang. Các dấu hiệu quan trọng để chẩn đoán bệnh là xét nghiệm máu cho thấy số lượng bạch cầu ái toan là 20-25% và xét nghiệm huyết thanh miễn dịch đặc hiệu với sán dây dương tính.
>> Xem thêm: NHẬN BIẾT NHỮNG TRIỆU CHỨNG BỊ GIUN SÁN Ở NGƯỜI LỚN
>> Xem thêm: SÁN MÓC: NGUYÊN NHÂN, TRIỆU CHỨNG VÀ CÁCH PHÒNG CHỐNG