Dấu hiệu bệnh sán chó ở trẻ em
NIH – Bệnh giun tim là một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, trẻ em dễ bị nhiễm giun hơn do trẻ hiếu động hay bò lổm ngổm trên sàn nhà rồi cho tay vào miệng hoặc đôi khi làm rơi đồ vật xuống sàn nhà rồi nhặt đồ mới ăn.
Tổng quan về bệnh giun sán ở trẻ em
Mời độc giả xem thêm video đáng quan tâm:
Có trên 100 loại giun đũa và 140 loại sán có khả năng gây bệnh cho người. Tỷ lệ nhiễm giun sán cũng rất cao, nhiều trường hợp dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như:
Thiếu máu nặng do giun móc, giun chui ống mật, tắc ruột do giun, viêm đường mật do sán lá gan nhỏ, ho ra máu do sán lá gan lớn, áp xe do sán lá gan lớn, viêm não, màng não tăng bạch cầu ái toan do giun đũa.
Hầu hết các loại giun sán không gây miễn dịch bảo vệ nên sau khi khỏi bệnh, người bệnh vẫn có thể bị tái nhiễm. Các bệnh do giun, sán gây ra khiến trẻ suy dinh dưỡng, thiếu máu, ảnh hưởng đến sự phát triển cả về thể chất và tinh thần của trẻ. Hầu hết trẻ nhiễm giun, sán đều nhẹ cân so với trẻ cùng lứa tuổi.
Trẻ bị nhiễm giun, nhiễm giun với số lượng nhiều sẽ ảnh hưởng đến việc học tập, không đủ sức khỏe để đến trường và thường mất tập trung trong học tập do tác hại của việc nhiễm giun.
Nguyên nhân nhiễm giun sán
Nguyên nhân chính là do giun sống ký sinh trong ruột người, hàng ngày chúng đẻ rất nhiều trứng. Trứng trong phân trên mặt đất phát triển và sau đó quay trở lại lây nhiễm cho người khác qua các con đường khác nhau, chủ yếu qua đường tiêu hóa.
Giun có thể bị nhiễm qua đường ăn uống, do ăn thức ăn không sạch, nấu chưa chín (như nem, tiết canh…); ăn rau sống chưa rửa sạch; uống nước chưa đun sôi; Nước uống không đảm bảo vệ sinh.
Trẻ em bị nhiễm giun khi cho đồ chơi bẩn vào miệng. Cầm, nắm thức ăn, sau khi đi đại tiện mà không rửa tay. Người lớn không rửa tay khi chế biến thức ăn cho trẻ.
Triệu chứng và chẩn đoán trẻ nhiễm giun sán
Các triệu chứng phụ thuộc vào loại giun mà đứa trẻ bị nhiễm. Dưới đây là một số loại côn trùng mà trẻ em hay mắc phải.
Nhiễm giun ở trẻ em
– Giun đũa:
Các triệu chứng lâm sàng chính dễ nhận biết.
Trẻ xanh xao, ăn không ngon.
Triệu chứng phổi gây ra hội chứng Loeffler: ho ra máu, đôi khi sốt. Khi có nhiều ấu trùng xâm nhập vào phế nang và phế quản sẽ gây viêm phế quản và viêm phổi.
Da: mày đay, phát ban không đặc hiệu.
Tiêu hóa: Đau bụng, nôn, chán ăn, tiêu chảy, đôi khi tiêu phân mỡ. Giun có thể tụ lại và gây tắc ruột, và có thể xâm nhập vào ống dẫn mật và gây viêm túi mật, tắc mật và áp xe gan. Nó đi vào ống tụy và gây viêm tụy và đôi khi viêm phúc mạc qua thành ruột.
Chẩn đoán giun đũa: Soi phân tìm trứng giun đũa. Công thức máu với bạch cầu ái toan tăng cao cho thấy điều này
– Giun kim:
Nhóm tuổi bị ảnh hưởng nhiều nhất là 3-7 tuổi. Trẻ học nhà trẻ, mẫu giáo tỷ lệ lây nhiễm rất cao. Nhiễm giun kim có tính chất gia đình.
Biểu hiện lâm sàng: Trẻ nhiễm giun kim có thể khó ngủ, thức giấc giữa đêm, khóc đêm, đái dầm, có khi đi ngoài phân lỏng. Khó chịu cho trẻ em. Nếu trẻ gãi liên tục, trứng giun có thể dính vào móng tay và gây tái nhiễm khi cầm nắm thức ăn. Chẩn đoán giun kim: Tìm trứng trong phân bằng tăm bông hoặc băng ở vùng hậu môn vào buổi sáng trong vài ngày liên tiếp. – Giun móc:
Nó thường thấy ở trẻ em sống ở khu vực nông nghiệp và làm việc chân trần.
Biểu hiện lâm sàng:
Tổng trạng: mệt mỏi, xanh xao, thiếu máu.
Da: Nơi ấu trùng xâm nhập gây ngứa dữ dội, đỏ và phồng rộp.
Phổi: Gây ra hội chứng Leffler giống như nấm ngoài da. Tiêu hóa: đau bụng, chán ăn, khó tiêu, tiêu chảy, buồn nôn, nôn, đôi khi đi ngoài phân đen.
Chẩn đoán bệnh giun móc: Căn cứ vào vùng dịch tễ, biểu hiện lâm sàng, bác sĩ chỉ định xét nghiệm phân để tìm trứng giun móc và có thể có hồng cầu.
– Giun tóc (Trichuris trichiura):
Nhiễm giun kim gây rối loạn tiêu hóa nhẹ, nhưng cũng có thể kèm theo chảy máu trực tràng và sa trực tràng. Chẩn đoán giun đũa: Tìm trứng trong phân.
– Giun chó (Toxocara Canis):
Nó thường thấy ở trẻ em thường xuyên tiếp xúc với chó và mèo. Trẻ mắc bệnh thường mệt mỏi, sốt nhẹ, thỉnh thoảng đau hạ sườn phải, nhức đầu dai dẳng.
Chẩn đoán: Thường dựa vào bạch cầu ái toan trong máu và huyết thanh học.
– Trichinella (trichinella):
Nó mắc phải khi ăn thịt lợn hoặc thịt ngựa có chứa ấu trùng giun sán. Triệu chứng rất điển hình:
bệnh tiêu chảy
sốt cao
sưng mặt và mí mắt
Đau cơ cũng phổ biến nhưng có thể khó phát hiện ở trẻ em. Chẩn đoán: Thường dựa trên sự kết hợp của các manh mối, các biểu hiện lâm sàng của gia đình và cộng đồng, và việc tiêu thụ thịt lợn hoặc thịt ngựa. Xét nghiệm máu thấy bạch cầu ái toan tăng, men cơ tăng. Tuyến trùng (Strongyloides stercoralis):
Nhiễm trùng ở người xảy ra thông qua sự xâm nhập của da và niêm mạc bởi ấu trùng bị nhiễm phân trong đất. Tuyến trùng khác với các loại giun sán khác ở khả năng sinh sản trong cơ thể con người.
Thường không có triệu chứng. Biểu hiện ngoài da phổ biến nhất là phát ban tái phát ở mông và cổ tay. Ấu trùng di cư tạo ra các vết lởm chởm, ngoằn ngoèo (ấu trùng di chuyển) đặc trưng của bệnh, gây ra các tổn thương màu đỏ, nổi lên và ngứa.
Giun trưởng thành chui vào màng nhầy của ruột non và gây đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy, xuất huyết tiêu hóa và viêm đại tràng mãn tính. Nếu nhiễm trùng sớm và nặng có thể gây tắc ruột non, nhiễm trùng huyết nếu nhiễm trùng nặng.
Chẩn đoán: Dựa vào tìm thấy ấu trùng trong phân. Chẩn đoán huyết thanh trong bệnh giun lươn không biến chứng.
Nhiễm sán dây ở trẻ em
Nhiễm sán dây ở trẻ em ít phổ biến hơn nhiễm giun, ít biểu hiện lâm sàng rộng hơn, thường không có triệu chứng và có thể gây rối loạn tiêu hóa như chán ăn, buồn nôn và tiêu chảy. Tuy nhiên về lâu dài lại ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất của trẻ, khiến trẻ chán ăn dẫn đến suy dinh dưỡng.
Nhiễm sán ở người bắt đầu khi tiếp xúc với da hoặc xâm nhập trực tiếp qua đường tiêu hóa. Bệnh xảy ra ở nhiều khu vực địa lý và có thể gây ra bệnh tật nghiêm trọng và đôi khi gây tử vong. – bệnh sán máng:
Vì ấu trùng đuôi xâm nhập qua da nên chúng thường được tìm thấy ở những người bơi lội và đi bộ nước ngọt, và bị nhiễm các loại sán khác nhau tùy theo khu vực địa lý.
Biểu hiện lâm sàng tùy thuộc vào loài gây bệnh và mật độ nhiễm sán.
Nhiệt
Viêm da
Các triệu chứng tiêu hóa thường bao gồm đau đại tràng, gan to và đôi khi tăng áp lực tĩnh mạch cửa.
Chẩn đoán: Dựa vào bệnh sử, triệu chứng lâm sàng đặc trưng, sự hiện diện của trứng trong dịch tiết và huyết thanh chẩn đoán.
– Bệnh sán lá gan:
Bệnh Sán lá Clonorchis: Do nhiễm trùng Clonorchis sinensis. Con người bị nhiễm bệnh do ăn cá nước ngọt có chứa ấu trùng đuôi trưởng thành sống hoặc nấu chưa chín.
Dấu hiệu lâm sàng không rõ ràng, thường không có triệu chứng và có thể gây đau mơ hồ hạ sườn phải ở những trường hợp nhiễm trùng vừa và nặng.
Nhiễm trùng với loài Paragonimus Paragonimus westtermani xảy ra ở người do ăn phải ấu trùng nang truyền nhiễm trong cơ và ruột của tôm và cua nước ngọt. Các triệu chứng gặp ở nhiễm sán trung bình hoặc nặng, thường là đờm màu nâu hoặc có máu, và có thể kèm theo dấu hiệu viêm màng phổi. Trường hợp mãn tính có thể xuất hiện triệu chứng viêm phế quản hoặc giãn phế quản.
Chẩn đoán: Dựa vào phát hiện trứng trong đờm hoặc phân. Nếu việc lấy trứng là âm tính, huyết thanh học chẩn đoán là rất quan trọng.
– Bệnh sán dây:
+ Sán dây bò Taenia Saginata: Người bị nhiễm do ăn thịt bò sống hoặc nấu chưa chín. Các triệu chứng lâm sàng bao gồm đau bụng nhẹ hoặc khó chịu, buồn nôn, chán ăn, mệt mỏi và sụt cân. Những bệnh nhân biết mình bị nhiễm sán dây thường nhìn thấy sán dây trong phân của họ.
Chẩn đoán: Được xác định khi phát hiện trứng hoặc sán dây trong phân. Nếu không tìm thấy, bạn có thể dán một dải giấy bóng kính vào vùng hậu môn và kiểm tra nó như cách kiểm tra giun kim. Một xét nghiệm máu cho thấy bạch cầu ái toan.
+ Bệnh sán dây lợn Taenia solium và Cysticercus: Người mắc bệnh do ăn thịt lợn nấu chưa chín. Nhiễm T. solium đường ruột thường không có triệu chứng và đôi khi kèm theo khó chịu ở bụng trên, buồn nôn, sụt cân và tiêu chảy. Người bệnh có thể thấy đốt sán lẫn trong phân.
+ Bệnh sán dây chó do nhiễm Echinococcus Granulosus hoặc E. multilocularis: Chó là vật chủ thường trực và trứng sán được thải ra ngoài theo phân. Bệnh thường gặp ở những nơi chăn nuôi có nuôi chó. Bệnh nhân bị nhiễm trùng gan do echinococcal thường có biểu hiện đau bụng hoặc sờ thấy một khối ở hạ sườn phải. Sỏi mật tái phát và các triệu chứng giống tắc mật có thể gây vàng da.
Chẩn đoán: Chụp X-quang ngực có thể cho thấy u nang trong phổi. CT khối u vú hoặc huyết thanh học của thành nang vôi hóa có thể có giá trị, nhưng kết quả âm tính không loại trừ nhiễm trùng siêu khuẩn.
Nước ta, một nước có khí hậu nóng ẩm, dân số đông, điều kiện vệ sinh còn hạn chế là điều kiện lý tưởng cho các loại giun sán phát triển. Do đó, việc phòng chống dịch bệnh có tầm quan trọng rất lớn và đòi hỏi phải tăng cường vệ sinh cá nhân và môi trường cụ thể. Rửa tay thường xuyên hàng ngày là cách tốt nhất để ngăn ngừa giun và giun.
Gia đình nên dạy trẻ rửa tay bằng xà phòng và nước sạch sau khi đi vệ sinh và trước khi ăn. Người lớn trong gia đình cũng cần đặc biệt lưu ý điều này trước khi chế biến thức ăn.
Luôn ăn chín uống sôi, không uống nước lạnh, không ăn đồ ôi thiu, không ăn đồ lạ. Che bạt lót để chuột, gián không bò vào bên trong. Tất cả các loại thực phẩm, kể cả những thực phẩm được bảo quản trong tủ lạnh, nên được hâm nóng trước khi ăn.
Sử dụng nguồn nước an toàn để chế biến thực phẩm và vệ sinh cá nhân. Sử dụng nhà vệ sinh hợp vệ sinh.
Chú ý vệ sinh cá nhân. Cắt móng tay cho trẻ thường xuyên, rửa hậu môn bằng xà phòng sau mỗi lần đi tiêu, tránh đi tiêu bừa bãi.
Trẻ em cũng như người lớn phải luôn giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, rửa tay, giữ gìn vệ sinh môi trường, không làm ô nhiễm nguồn nước bằng phân, không để súc vật tiếp xúc với sinh hoạt của gia đình.
Cho trẻ mặc ấm định kỳ 6 tháng một lần. Để điều trị dứt điểm bệnh, tất cả các thành viên trong gia đình, kể cả người lớn, nên được điều trị sổ giun và sổ giun cùng lúc với trẻ nhỏ.
Xem thêm: NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ NHIỄM GIUN SÁN CHÓ
Xem thêm: TIÊM NGỪA GIUN SÁN CHO CHÓ